Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012

EURO 2020 sẽ được tổ chức tại một số quốc gia

EURO 2020 sẽ được tổ chức tại một số quốc gia
Ủy ban chấp hành UEFA đã thống nhất tổ chức cúp vô địch bóng đá Châu Âu 2020 tại các quốc gia khác nhau. Đây là thông báo của tổng thư ký UEFA Gianni Infantino trong cuộc họp báo trực tuyến tại trang của UEFA vào ngày 6 tháng 12.

Buồn cười với lời kêu gọi "tử hình không cần xử"


http://www.baomoi.com/Home/HinhSu/news.zing.vn/Giet-nguoi-man-ro-nen-tu-hinh-luon-khong-can-xet-xu/9913391.epi

'Giết người man rợ nên tử hình luôn, không cần xét xử' (ý kiến của ĐB Trần Việt Trung của Hội đồng nhân dân TP HCM)

Với câu phát ngôn gây sốc này, ĐB Trần Việt Trung của Hội đồng nhân dân TP HCM đã tự chứng tỏ được trình độ nhận thức chung và nhận thức về pháp luật, về logic để xây dựng một thể chế pháp quyền và một nền văn minh (trên lý thuyết) của mình là bằng con số 0 tròn trĩnh. Một ý kiến thừa lòng tốt, thừa tình yêu thương đồng bào nhưng lại rất thiếu trình độ. Bạn có biết TÍCH CỰC, NHIỆT TÌNH + NĂNG LỰC KÉM sẽ bằng cái gì không?

Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012

Niên biểu lịch sử Việt Nam

Thời tiền sử - Thời đồ đá cũ: con người đã xuất hiện ở Việt Nam khoảng 10.000 – 30.000 năm trước với các dấu tích của nền văn hóa Núi Đọ, Thần Sa, Sơn Vi.
- Thời đồ đá mới: tiêu biểu với nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn khoảng 6.000 – 10.000 năm trước.
- Thời đại kim khí: cách đây khoảng 4.000 năm.

Chó thật, chó đá, chó rơm


Chó thật, chó đá, chó rơm 
(Nguyễn Dư)

Chó là con vật sống rất gần gũi người. Sướng khổ như người.
So với chó nhiều nước thì chó Việt Nam chưa được xếp vào hạng được ăn ngon mặc đẹp. Tuy vậy, chó Việt Nam có thể hãnh diện về mặt huyết thống của mình.
Ta có ít nhất là ba giống chó. Ngoài chó thật biết gâu gâu, ta còn có chó đá trơ trơ và chó rơm im thin thít... Mỗi giống một vẻ, mười phân gần vẹn mười.
*
 Số phận con chó bằng xương bằng thịt thì ai cũng đã biết. Thật đáng thương.
Ăn thì bữa đói bữa no. Làm thì chẳng từ chuyện gì. Dọn cho thằng cu, liếm cho cái đĩ mỗi lần chúng bậy ra nhà. Nào là canh trộm ban đêm, canh người lạ ban ngày.
Thế mà còn bị... chụp mũ. Mất mạng như chơi.
Một người cưỡi ngựa đi đến đầu làng kia, có con chó đang ngủ giữa đường, bỗng giật mình thức dậy, đuổi theo con ngựa, sủa cắn mãi, làm cho con ngựa sợ, chạy lồng lên.
Người cưỡi ngựa tức giận vô cùng, muốn giết ngay con chó, mới bảo rằng:
- Tao mà có súng, thì cho mày một phát là hết cắn. Nhưng mà được, tao đã có cách làm cho mày chết.
Nói xong, người kia chạy đến giữa làng, kêu to lên rằng :
- Chó dại! Chó dại!
Những người xung quanh đấy, nghe tiếng kêu chó dại, liền vác gậy, vác xẻng ra đuổi đánh chết con chó.
Gớm thay cho lời nói của người ta, có khi giết hại được hơn là đồ binh khí!
(Quốc văn giáo khoa thư, lớp sơ đẳng, 1948)

Chó nước ta được sinh ra trên mảnh đất lắm người nhiều quán nhậu. Ngàn năm văn hiến, đậm đà truyền thống "hoa thơm bướm lượn, chó rông người thèm".
Chó là một trong mấy cái thú ở đời. Không những thế...
Con chó nhà kia bị chủ hoá kiếp.
Xuống âm phủ, Diêm Vương gọi chó ra hỏi tội.
- Đồ chó chết kia, ai cho mi được vinh dự đến chầu ta?
Chó run sợ, mếu máo kể lể:
- Tâu Diêm Vương, con ăn ở hết lòng với vợ chồng chủ con từ tấm bé. Nào trông nhà, nào dọn đồ dơ.
Thế mà con vẫn còn bị chúng nó đánh chửi, huỷ hoại cả "thú vị". Đau quá Diêm Vương ơi. Đời mà hết động cỡn, sống âm thầm như một hoạn quan, thì còn gì là đời.
Tuần vừa qua, nhà chúng nó bỗng vui như mở hội. Nào rượu, nào mẻ, riềng tỏi, lạc rang, húng quế. Thân con bị băm vằm, chia năm xẻ bảy. Tưng bừng lá vông. Rựa mận, tiết canh, dồi, gan. Nướng, xào, luộc, rim...
Diêm Vương nuốt nước miếng, cắt lời chó:
- Đừng nói nữa kẻo... tao thèm. Trông mày hơ hớ như thế kia thì ai mà chả muốn "đánh" mày.
Chó bẽn lẽn... toát mồ hôi lạnh.
- Mày bị giết oan, tao cho đi gác cầu Vòng. Chờ ngày bọn khốn nạn kia xuống đây, cho mày bẻ răng, xẻo lưỡi, móc mắt chúng nó.
Diêm Vương cho chó chơi trò cân phúc, cân tội ! Có tiếng xì xào "Phen này chúng mày sẽ biết... mõm ông". Nhưng không...
- Con không biết trả thù. Con chỉ xin Diêm Vương bắt chúng nó từ nay phải tôn trọng "cẩu quyền", "thú vị", cho đồng bào con được nhờ.
- Khá khen thay. Hôm nay ta học được bài học "Có dung người dưới mới là khuyển trên".
Từ đó, trên dương gian bắt đầu có hội bảo vệ súc vật.
Đấy là chuyện dưới âm phủ. Chuyện trên trần gian cũng lâm li không kém.
Có lần tôi được nghe bố mẹ kể chuyện những năm loạn lạc.
- Làng mình được lệnh phải giết hết chó.
- Mấy con mực, con vện cứ thấy tự vệ, du kích là sủa toáng lên. Tây ngoài đồn bốt hô lính chạy vào làng lùng xét, tra hỏi. Uỷ ban bắt buộc phải đối phó kịp thời...
Thế là làng xóm được một dịp đánh chén bất đắc dĩ.
Ông giáo ngà ngà say, đưa tay dụi mắt, giọng lè nhè:
Phong trần đến cả thôn quê
Tang thương đến cả trâu kia khuyển này
Chó cũng bị đẩy vào cuộc chiến. Nói chẳng ai tin.
Ngoài mấy trường hợp đặc biệt kể trên, phần đông chó Việt Nam sống cuộc sống bình thường của chó. Nghĩa là ăn, ngủ, chạy rông.

 Thỉnh thoảng a dua bạn bè.
  Con chó đi gặp con gà trống mới chào, rồi nói:
- Tôi trông cho gặp anh một chuyến, mà hỏi một chuyện. Con chó mới hỏi : Trời phú tính cho anh hay, chớ phải chơi sao! Sao lại biết canh ba, lại khi gần sáng dậy mà gáy; ngày ngày cũng vậy.
Con gà nói:
- Cái là trời đã phú tánh hễ tới chừng thì gáy. Rồi con gà mới hỏi : Còn như anh làm sao anh biết có người đi mà sủa?
- Vốn cái tâm tôi thuộc đất: hễ động đất là động tới tâm tôi, nên tôi biết.
- Mà khi anh nằm dưới đất thì làm vậy, chớ như khi anh nằm trên ván, thì biết sao được mà sủa?
- Chừng tôi ở trên ván, nghe chúng sủa, thì tôi bắt chước sủa hùa theo mà thôi.
(Trương Vĩnh Ký, Chuyện đời xưa, Sudasie tái bản, 1994)
 
Con chó thành thực đến độ dễ thương. Không biết nó có hùa theo bạn bè cắn càn người ta không?
Xưa kia tục ta tin rằng chó trắng mũi đỏ là yêu khuyển, không nên nuôi. Ngược lại, nên nuôi chó đen vì giống này kị yêu ma.
"Giống chó (trắng) này tuy mang hình chó, nhưng khi chủ vắng nhà, nó nhảy lên nằm võng đưa như người, và những đêm thanh vắng, sáng trăng suông nó sẽ đội nón, chống gậy đi trên mái nhà bằng hai chân sau như người. Nó sẽ tìm gặp những yêu ma để tỏ rõ hết mọi sự trong nhà và xui giục ma quấy rầy nhà chủ, gây bệnh hoạn làm đau ốm các người trong gia đình.
Những phụ nữ hữu sinh vô dưỡng khi sinh thường lấy máu chó đen vẩy ở quanh buồng đẻ để tà ma không dám tới, nhất là để kỵ giặc Phạm Nhan. Theo ông Nghiêm Thẩm, thì các sản phụ này phải ăn thịt và dồi chó đen và còn phải chôn ở dưới chân giường xương chó đen nữa. Phải kén chó đen tuyền mới hiệu nghiệm". 
(Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, tập 2, Xuân Thu tái bản, tr. 265).
Thời Xuân Thu, Phạm Lãi giúp Việt Câu Tiễn đánh bại được Ngô Phù Sai.
Câu Tiễn là người đa nghi, hay giết. Phạm Lãi đoán biết rằng những người có công giúp Câu Tiễn trong lúc khó khăn, không thể sống chung với Câu Tiễn trong thời bình.
Phạm Lãi quyết định từ quan. Trước khi rời bỏ Câu Tiễn, ông nói với xung quanh:
"Thỏ tử cẩu phanh, điểu tận cung tàng" (thỏ chết rồi thì chó bị làm thịt, chim không còn thì cung bị cất dấu).
Phạm Lãi là một nhà tiên tri. Ông còn cho chúng ta biết một điều quan trọng là người Trung quốc cũng ăn thịt chó. Rất có thể trước cả người Việt Nam.
Thế mà nhiều người cứ bô bô... tự hào bậy!
Trở lại chuyện chó nước ta.
Chó Việt Nam thông minh, có óc sáng tạo. Cứ nghe chó giãi bày tâm sự với đám trâu, ngựa, dê, gà, lợn thì đủ hiểu:
(...)
Khi sống thì gìn giữ của đời
Khi thác xuống giữ cầu âm giới
Người có phước muông đưa ra khỏi
Ai vô nhơn, qua chẳng đặng đâu
Chủ có lòng suy trước , xét sau
Khi lâm tử, gạo tiền tống táng
Chủ đã có công dày, ngãi rộng
Muông dễ không tiếp rước đãi đưa (...)
(Truyện Lục súc tranh công)
Thật khó tin! Chó chết được chủ lo gạo tiền, tống táng. Nước ta có chủ nào tử tế với chó đến mức như vậy không? Có chứ! Có nhiều lắm. Nhưng tại sao chó lại được đối đãi như vậy? Tại vì...
Thành ngữ "Tiền cột cổ chó" được Huỳnh Tịnh Của (Đại Nam quốc âm tự vị) giải nghĩa là: "Ngu tục hiểu con chó chết rồi, hồn nó xuống giữ cầu âm giái, cho nên phải cột tiền hối lộ mà tống táng, hoạ ngày sau nó đã không cắn mà lại đưa mình qua cầu âm ti".
Chu choa, chèng đéc ơi!
Phải công nhận rằng chó Việt Nam đáng nể hơn chó các nước khác.
Chủ kia chắc là ăn ở cũng khá lem nhem, sợ bị Diêm Vương chiếu cố. Hắn lo móc nối ngay từ bây giờ, sửa soạn phong bì đi hối lộ cai tù tương lai của âm phủ. Gặp được con chó ngoan, biết điều. Mình là chó, lúc cần mình thì nó tôn mình lên. Hết cần thì nó cho một chày là xong. Đừng tưởng bở. Mình gặp thời, nó mời mình ăn. Không ăn đứa khác cũng đớp mất. Uổng của trời. Chi bằng cứ bài bản "vừa có tình, vừa có lí" cho xong chuyện.
Tiếc rằng dư luận lâu nay cứ chĩa mũi dùi vào mấy ông, mấy bà đầy tớ vênh váo kia! Nhầm đối tượng rồi, bà con ơi. Ồn ào mà chả đi đến đâu. "Chó sủa, đoàn người cứ đi" (Les chiens aboient, la caravane passe).
Trước hiện tượng "Tiền cột cổ chó", giới khoa học nước ta tỏ ra lo ngại, tranh cãi sôi nổi. Phe theo thuyết tiến hoá thì cho rằng chó truyền bệnh sang người. Phe khác phản bác, dựa vào lịch sử xã hội để chứng minh rằng người truyền bệnh sang chó.
Tuy chưa có kết luận thống nhất nhưng cả hai phe đều đồng ý với nhau trên một điểm là người giống chó, chó giống người, cả hai cùng biết ăn hối lộ.
Dân đen gọi những ông hèn kém mà lại có địa vị cao, hợm hĩnh, là "chó nhảy (hay ngồi) bàn độc". Bàn độc là bàn ngồi đọc sách, bàn để đồ thờ. Có người diễn nôm chữ độc là chất độc, là cái bả. Nghe cũng hay hay.
Năm 1929, Nguyễn Công Hoan viết truyện ngắn Răng con chó của nhà tư sản, kể chuyện một ông lão ăn mày lập mưu cướp được đĩa cơm của chó, bị ông chủ chó phóng xe ô tô "kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!".
Khoảng 1952, Canh Thân sáng tác bản nhạc tả cảnh chó bẹc giê nhà giàu "lếnh loáng hết ngay một đĩa đầy" thịt bò.
- Mới thấy một con chó nhà giàu mà đã nóng mặt. Những nhà tư sản mới bây giờ nuôi cả bầy có nghe ai nói gì đâu!
Ngày xưa, nước ta có "Chó đá" (Thạch khuyển).
 
Lần kể xuân thu biết mấy mươi
Cửa nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Đêm thanh nguyệt dãi màng trông nguyệt
Ngày vắng ruồi bâu biếng ngáp ruồi
Cắn kẻ tiểu nhân nào đoái miệng
Chào người quân tử chẳng phe đuôi
Phỏng trong sức có ngàn cân nặng
Dấu nhẫn ai lay cũng chẳng dời.
(Lê Thánh Tông, Hồng Đức quốc âm thi tập)
Cửa nghiêm là chỗ thờ phụng trang nghiêm. Trước kia, hai bên cửa vào nội điện Lam Sơn có "hai con chó đá thô sơ". Phan Huy Chú cũng cho biết "ngoài cửa nghi môn có hai con chó ngao bằng đá rất thiêng" (Nguyễn Tiến Cảnh, Mỹ thuật thời Lê sơ, Văn Hoá, 1978, tr. 35).
(Chúng tôi có tham khảo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú nhưng không thấy đoạn viết được Nguyễn Tiến Cảnh nói đến).
Bằng chứng chắc chắn hơn là con chó đá chầu trước đền thờ Đinh Tiên Hoàng, tại Hoa Lư. Theo Bezacier thì con chó đá này được tạo dựng vào khoảng năm 1610 (Louis Bezacier, L'art vietnamien, Editions de l'Union française, 1955, tr.193).
Dường như lúc đầu, khoảng thế kỉ 15 hoặc sớm hơn nữa, người ta đặt chó đá để canh giữ chỗ thờ phụng vua.
Đời sau, nhiều làng bắt chước chôn chó đá để yểm trừ ma quỷ, bảo vệ dân làng. Ban đầu chôn ở cửa đình, cửa chùa, rồi dần dần chôn cả ở cổng làng, đường làng.
 
Cadière (1918) cho biết:
Làng Nam Phổ Đông nằm trên đường từ Huế ra Thuận An có chôn 2 con chó đá. Một con để chắn hướng đòn ngang của ngôi đình làng Phú Khê nằm gần đó. Con kia để chắn hướng một con đường chạy qua bãi tha ma.
(Léopold Cadière, Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens, tập 2, Ecole française d'Extrême-Orient, 1992, tr.132, 133).
Dưới gốc đa già, bên cạnh con đường dẫn vào làng Hoàng Mai (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội ngày nay) trước năm 1945, có chôn 4 con chó đá.
Tiếp theo làng quê, đến lượt các nhà giàu cũng chôn chó đá.
Xưa kia, cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để cho người ngoài đừng nhìn thẳng vào trung tâm nhà. Người ta cũng thường kiêng không nên để cho có con đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà. Nếu bất đắc dĩ không tránh được những điều kỵ ấy thì người ta chôn ở trước nhà một con chó đá hay là treo một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí.
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Đông Nam Á tái bản, 1985, tr.179).
Kho thóc của thành Quảng Trị có chiếc đòn hướng vào dinh quan án sát. Người ta cho đắp một con chó (thần cẩu) đặt trên mái dinh để ngăn chặn ảnh hưởng của chiếc đòn kia (L. Cadière, sđd).
Hàng quý tộc chôn chó đá để canh giữ, bảo vệ chỗ thờ vua chúa. Nhà phong thuỷ chôn chó đá để thay đổi dương cơ, âm phần. Dân gian chôn chó đá để xua đuổi ma quỷ.
Nếu không tiện chôn hay đặt chó đá thì có thể gắn một tấm gương.
Tại Huế, gần bến Đông Ba có nhà bị đòn ngang của đền Quan Đế phía trước đâm thẳng vào. Chủ nhà cho gắn một tấm gương trên mái. Gương sẽ phản chiếu, đổi hướng đi của chiếc đòn ngang.
Bị một con đường phía trước hướng thẳng vào nhà người ta cũng cho đặt một tấm gương trên mái để tránh rủi ro. (L. Cadière, sđd).
Thành ngữ "Đánh chó đá vãi cứt" được dùng để ám chỉ bọn bất tài mà lại hay huyênh hoang, khoác lác.
Chó rơm (sô cẩu) có từ thời cổ xưa. Lão Tử than:
"Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu..." (Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm...).
Những con chó kết bằng rơm khi chưa bày để cúng thì được cất kỹ trong rương hoặc giỏ, bao bằng gấm vóc, khi cúng xong rồi, người ta liệng chúng ra đường, người đi đường giẫm lên đầu, lên cổ chúng hoặc lượm về để nhóm lửa".
(Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử -Đạo đức kinh, Văn Hoá, tr. 171).
 
Chó rơm bị vứt ra đường, bị người ta giẫm lên, hoặc lượm về để nhóm lửa. Như vậy thì chó rơm không phải là đồ tế lễ của triều đình, vua chúa.
Chó rơm là vật cúng của dân gian. Bên cạnh chó rơm (hay chó cỏ) còn có rồng đất cũng là một vật cúng.
Thành ngữ "Chó cỏ rồng đất", được giải nghĩa là:
"Xưa kia ta cúng tế thường bện chó bằng cỏ, nắn rồng bằng đất để dùng lễ cúng ; chừng cúng xong thì đem đi liệng bỏ. Nghĩa rộng (của thành ngữ) là : Người hoặc vật mà người ta hết cần dùng. Công thần đã đem mối nước lại cho nhà vua, mà bây giờ bị nhà vua sa thải".
(Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954, tr. 80).

Rồng là biểu tượng của vua chúa. Chó là con vật gần gũi dân đen. Tại sao " chó cỏ" lại nằm cạnh "rồng đất" trên bàn thờ?
Câu trả lời đơn giản là rồng (long) của dân gian không phải là rồng của vua chúa. Rồng của dân gian là con long xà (loài rắn lớn), con giao long (cá sấu, loài thuỷ quái), con khủng long của thời tiền sử.
Tín ngưỡng dân gian tin rằng:
Những kẻ sát nhân, những gái giang hồ, những người bất nhân độc ác khi chết hồn bị đoạ xuống địa ngục, phải leo qua cầu Vòng. Cầu Vòng trơn như bôi mỡ bắc qua sông Nại Hà. Những tội nhân thường chỉ leo được đến lưng chừng là ngã lăn xuống sông Nại Hà bị chó ngao, thuồng luồng, rắn giải cắn xé.
(Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển 1, Xuân Thu, tr. 321).
Người ta phải làm lễ cúng chó ngao, thuồng luồng, rắn giải dưới âm phủ để cầu cho người chết qua sông Nại Hà được bình yên.
"Chó cỏ, rồng đất" tượng trưng cho chó ngao, thuồng luồng, rắn giải của âm phủ.
Nhiều người sợ chó ngao nhưng lại hay mang chó ngao ra... hù doạ người khác.
Hù doạ bằng cách mời thầy phù thuỷ làm phương thuật "Yểm bùa họng chó".
Thầy phù thuỷ làm một cái bùa, kết thành hình người mà thân chủ muốn trả thù, muốn hại. Rồi thầy thắp đèn đốt nhang, đọc thần chú, tung phép bắt hồn người kia nhập vào bùa. Bùa luyện xong, được thầy phù thuỷ yểm vào họng một con chó.
Người bị trả thù kia sẽ bị âm binh bắt nộp cho chó ngao.
Huỳnh Tịnh Của cho biết là chó cỏ (sô cẩu) còn được dùng để tế đảo vũ (cầu mưa).
Văn học thỉnh thoảng cũng mượn hình ảnh con chó để ví von, luận bàn thế sự.
Người thì chửi bọn làm tay sai cho thực dân Pháp: 
Sống thì bắt thỏ thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện sắc còn phơi lững đững
Thúi tha danh hãy nổi lêu bêu
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép
Đưa đón lao xao lũ quạ diều
Một trận gió dồi cùng sóng dập
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu
(Nguyễn Văn Lạc, Chó chết trôi)
Người thì than vãn cho cuộc đời phù du:
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
(Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc)
Vân cẩu là đám mây hình con chó. Cuộc đời đổi thay nhanh như đám mây trắng bỗng chốc hoá thành hình chó xanh (thơ Đỗ Phủ). Người khác lại muốn được... như chó:
Tâu rằng : "Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông" (Nhị độ mai)
Khuyển mã (chó ngựa) là lời tự khiêm của bầy tôi đối với vua hoặc tớ đối với chủ. Ơ hay! Sao lại vàng thau lẫn lộn như thế? Bầy tôi có bổn phận của bầy tôi. Tớ có phong cách của tớ. Tại sao tôi tớ lại chơi trèo, đòi so sánh mình với chó ngựa ? Vô tình hạ thấp uy tín của chó ngựa.
Cao Bá Quát mượn chuyện các quan cãi nhau để chửi khéo triều đình Tự Đức:
...Hai bên cãi nhau
Bên này bảo chó
Bên kia cũng chó
Hai bên đều chó
Rồi họ đánh nhau...
(Thái Bạch, Giai thoại văn chương Việt Nam, Xuân Thu tái bản, tr. 108)
Kho tàng văn chương bình dân truyền khẩu có bài (tạm đặt tên là) Đôi ta:
Em đẹp như phân lạc giữa dòng
Anh như chú khuyển đứng bên sông
Dòng sông nước chảy em trôi mãi
Anh đứng trên bờ rỏ dãi trông
Hương tình ngào ngạt, thiết tha đắm đuối.
Tiếc thương cho số phận nổi trôi, đôi bờ phân cách.
Bao giờ thuyền tình mới ghé bến mơ ? Kinh nghiệm sống dạy người dân quê một điều:
Chó đâu chó sủa chỗ không
Chẳng thằng ăn trộm thì ông ăn mày
Ngoài nghĩa đen, nghĩa bóng, câu ca dao còn phản ánh nền đạo lí của ta. Ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, bất kể già hay trẻ, lớn hay bé, tất cả đều là thằng đáng khinh. Ngược lại, ăn mày được gọi bằng ông một cách kính trọng.
Ăn mày kiếm ăn giữa ban ngày, ăn trộm là phường chỉ thậm thụt bất kể ngày đêm.
Chó có đạo lí của chó. "Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo", chưa chắc chó đã thua người.
Các nước phương tây ngày nay đã thành công trong việc huấn luyện chó để cứu người, tìm ma tuý, chất nổ.
Người ta đang cố gắng dạy chó ngửi được những đồng tiền bẩn.
Trời đất quỷ thần ơi! Sao lại dạy chó... chống lại người như vậy? Người ta muốn diệt chủng chó à?
Chó nước ta thực tế, biết mình biết người. Không mơ mộng được cưng chiều. Chỉ mong giang sơn gấm vóc kia giảm bớt những lò sát sinh treo " cờ tây " ngất nghểu. Bảy, tám món ăn chơi. Chín, mười món ăn thiệt. Bớt những tấm bảng hiệu chào khách lủng lẳng, cao gần bằng... mái đình làng!
Trong ngôn ngữ hàng ngày, chúng ta nên thận trọng để tránh một vài ngộ nhận.
" Chó má " là lời khen con nít mới đẻ xinh tốt, mà không dám nói ngay (Huỳnh Tịnh Của). "Đồ chó má" là câu chửi, khinh thường người khác.
"Cây chó đẻ" là một loài cỏ dùng làm thuốc chữa bệnh hậu sản. "Đồ chó đẻ" là câu chửi tục tĩu.
Đúng như các cụ vẫn thường nói, cứ đụng đến "đồ" là hết cả trang nghiêm. Nhất là... đồ chó.
Nguyễn Dư (Lyon, 9/2005)
http://chimvie3.free.fr/22/nddg082.htm


Từ Loại Trong Tiếng Việt


Từ Loại Trong Tiếng Việt
(tiếng việt thực dụng)
(Hồng Huy)

Người Việt chúng ta biết đến từ loại (parts of speech; parties du discours) từ khi bắt đầu tiếp xúc với ngữ pháp Tây phương, cụ thể là ngữ pháp của tiếng Pháp. Trước đó, chúng ta chỉ chia các từ trong ngôn ngữ thành hai nhóm, thực từ và hư từ. Theo cách phân biệt xưa, những từ có ý nghĩa từ vựng là thực từ; những từ có ý nghĩa ngữ pháp là hư từ. Ngày xưa, "từ" được gọi là "tự", cho nên "thực tự" (chữ nặng) chính là "thực từ", và "hư tự" (chữ nhẹ) chính là "hư từ" nói đây. Nói một cách dễ hiểu, những từ ngày nay được coi là danh từ, động từ và tính từ (sách Tàu gọi là hình dung từ), thì ngày xưa được coi là thực từ. Những từ khác đều được coi là hư từ. Tuy nhiên, vì lúc bấy giờ, người Trung-Quốc cũng như người Việt chúng ta chưa mấy chú trọng vào ngôn ngữ học, vào ngữ pháp, vào vấn đề từ loại, nên sự phân biệt "thực từ" và "hư từ" chỉ được đặt nặng trong khi dạy và học lối văn biền ngẫu (có đối).
Trong khi nghiên cứu những tác phẩm cổ văn, tôi nhận ra một điều đáng ngạc nhiên. Tuy các từ trong ngôn ngữ chỉ được phân biệt thành hai nhóm, nhưng những câu đối, những vế đối thường rất chỉnh về từ loại, không phải chỉ chỉnh trong giới hạn thực từ và hư từ, mà còn chỉnh cả với cách phân biệt từ loại ngày nay: Danh từ đối với danh từ; tính từ đối với tính từ, v.v... Xin dẫn một ít thí dụ.
Hai cặp có đối trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh-Quan:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú;
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con quốc-quốc;
Thương nhà, mỏi miệng cái gia-gia.

Lom khom và lác đác đều là tính từ; dưới và bên đều là giới từ vị trí; núi và sông đều là danh từ; tiều và chợ đều là danh từ; vài và mấy đều là số từ bất định; chú và nhà đều là danh dừ.
Nhớ và thương đều là động từ; nước và nhà đều là danh từ; đau và mỏi đều là tính từ; lòng và miệng đều là danh từ; con và cái đều là loại từ (article); quốc-quốc và gia-gia đều là danh từ.
Xét chung, trong thơ của Bà Huyện Thanh-Quan, những cặp có đối đều rất chỉnh, chỉnh cả về từ loại hiểu theo ngữ pháp hiện đại.
Hai cặp có đối trong bài Thuật Hoài của Đặng Dung:
Thời lai, đồ điếu thành công dị;
Vận khứ, anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa, hữu hoài phù địa trục;
Tẩy binh, vô lộ vãn thiên hà.

Thời và vận đều là danh từ; lai và khứ đều là động từ; đồ điếu và anh hùng đều là danh từ; thành và ẩm đều là động từ; công và hận đều là danh từ (phân tích cách khác: thành công và ẩm hận đều là động từ); dị và đa đều là tính từ (có người cho đây là trạng từ, adverbe).
Trí và tẩy đều là động từ; chúa và binh đều là danh từ; hữu và vô đều là động từ; hoài và lộ đều là danh từ; phù và vãn đều là động từ; địa trục và thiên hà đều là danh từ.
Tóm lại, tuy ngày xưa các từ chỉ được phân loại tổng quát thành thực từ và hư từ, nhưng trong thực tế hành văn, cách phân loại còn kỹ hơn nhiều.
Còn ngày nay, vấn đề phân biệt từ loại trong tiếng Việt đã ổn định chưa? Xin trả lời là chưa. Lý do là vì chúng ta chưa có một cuốn ngữ pháp hoàn chỉnh được mọi người chấp nhận. Thực trạng hiện nay liên hệ đến việc phân biệt từ loại còn những trở ngại này:

-Việc phân biệt từ loại chưa được đánh giá đúng mức.
-Việc qui loại không dễ dàng.
-Chưa có sự thống nhất trong việc gọi tên các từ loại.

Sau đây, chúng ta sẽ đi vào từng trở ngại, cố gắng tìm hiểu, phân tích, với hi vọng giải quyết được đôi phần.
Trước khi đề cập đến vấn đề từ loại, chúng ta hãy bàn qua về vấn đề ngữ pháp, vì phân biệt từ loại là một phần của cú pháp, mà cú pháp là một phần của ngữ pháp.
 Nói chung, bất cứ người nào đã trưởng thành, đã bắt đầu sử dụng tiếng mẹ đẻ từ ngày thơ ấu, đều có thể tự nhiên nói được tiếng mẹ đẻ. Không có chuyện phải học ngữ pháp rồi mới nói được tiếng mẹ đẻ. Một đứa trẻ sinh ra, tới tuổi, nó tập nói tiếng mẹ đẻ với cha mẹ và người thân trong gia đình. Lớn hơn chút nữa, nó tập nói với bạn chơi, bạn học. Độ mười tuổi, tự nhiên nó nói được những câu, tuy không văn chương sâu sắc gì, nhưng rất đúng cách. Một đứa trẻ 3 tuổi gọi mẹ: Mẹ ơi, con đói bụng. Mẹ nó hiểu, và cho nó ăn. Nhưng nếu nó xếp lộn bậy 5 chữ đó theo kiểu tự phát: Ơi bụng con đói mẹ, thì có thể mẹ nó sẽ ngẩn ngơ không hiểu. Một đứa trẻ lớn hơn nói với bạn: Tao không thích đá banh. Bạn nó hiểu và bỏ đi rủ đứa khác. Nhưng nếu nó nói không đúng cách: Banh đá không thích tao, thì bạn nó chắc phải hỏi lại. Sự nói đúng cách này chính là cái nền của ngữ pháp. Ngữ pháp đây là ngữ pháp thực dụng, ngữ pháp cha truyền con nối của một thứ tiếng, không cần ghi ra giấy mực, chỉ cần thực tập. Một đứa trẻ người Việt tập nói tiếng Việt, chính là đang học ngữ pháp tiếng Việt. Người tập cho nó nói, chính là đang dạy ngữ pháp cho nó.
Cao hơn một bực, người lớn trong gia đình, ngoài xã hội, nói chuyện với nhau, đều dễ dàng hiểu nhau qua tiếng mẹ đẻ. Kết quả này là do ai nấy đều sử dụng ngôn ngữ theo cùng một cách. Cách sử dụng thống nhất này được học, được tập ngay từ khi mới tập nói.
Cao thêm một bực nữa, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, viết bằng tiếng mẹ đẻ (tôi muốn nói tiếng Việt), có người cả đời không biết đến một cuốn sách ngữ pháp (tiếng Việt), có học ngữ pháp chăng thì cũng là ngữ pháp của tiếng nước ngoài (Pháp hoặc Anh), nhưng những bài văn , bài thơ, bài phóng sự của họ viết đều có thể rất hay và dễ hiểu đối với mọi người đồng ngữ. Như vậy, thiết tưởng đâu có cần đến ngữ pháp làm gì? Cứ quan niệm việc nói tiếng mẹ đẻ giống như việc ăn, ngủ, hô hấp và bài tiết. Ai cũng làm được, không cần phải học tập. Rất đúng! Nhưng nếu chúng ta nghĩ lại, những nhu cầu tự nhiên của con người, tuy ai cũng biết làm, nhưng tựu trung vẫn có những cách làm hay hơn, hợp lý hơn. Việc sử dụng tiếng mẹ đẻ cũng vậy. Ai cũng sử dụng được, nhưng tựu trung vẫn có một cách sử dụng hợp lý và hay hơn. Chúng ta cần đến ngữ pháp là vì thế, chỉ vì thế.

Nói cách khác, chúng ta bàn đến vấn đề ngữ pháp, là vì tiếng Việt, chớ không phải vì bản thân từng người chúng ta. Chúng ta dạy con cháu chúng ta nói tiếng Việt, chúng ta nói và viết tiếng Việt được rồi , thành thạo rồi, nhưng vì yêu quí tiếng mẹ đẻ, chúng ta muốn ngôn ngữ của chúng ta đạt đến trình độ tinh luyện, không thua kém những thứ tiếng tinh luyện nhất của nhân loại. Tiếng Anh và tiếng Pháp là hai ngôn ngữ đã được coi là tinh luyện, đã có ngữ pháp ổn định, nhưng những nhà nghiên cứu hai thứ tiếng này hiện vẫn còn bàn cãi về nhiều vấn đề liên hệ.
Tiếng Việt của chúng ta đã được các nhà nghiên cứu quốc tế xếp vào danh sách 42 thứ tiếng mệnh danh là "ngôn ngữ văn minh" (langues de civilisation), hoặc "ngôn ngữ văn hóa" (langues culturelles), trong khoảng 3000 ngôn ngữ của nhân loại. Chúng ta có thể tự hào, nhưng không thể tự mãn. Phải nhân đó tiến lên. Chúng ta hoài bão một ngày nào đó tiếng Việt sẽ được dạy tại hầu hết các trường đại học trên thế giới; một ngày nào đó tác phẩm viết bằng tiếng Việt sẽ được trực tiếp dự tranh giải Nobel Văn-Học, không cần qua bản dịch. Cái đích chắc không gần, nhưng chúng ta không đi thì chẳng bao giờ tới.
Vậy, chúng ta cần một cuốn ngữ pháp tiếng Việt? Phải, chúng ta rất cần. Hiện nay, trong nước cũng như ở hải ngoại, sách ngữ pháp tiếng Việt cũng đã có nhiều. Nhưng một cuốn ngữ pháp thích dụng cho mọi người, thì chưa có. Phần nhiều những người soạn sách đều nặng về lý thuyết, nặng về giáo khoa, tác phẩm có khi là một giáo trình dài hạn, cho nên không thể phổ cập đối với quần chúng độc giả. Chúng ta phải nhận ra chúng ta đang cần cái gì, và chưa cần cái gì. Tiếng Anh và tiếng Pháp, và một số ngôn ngữ Ần-Ấu (Indo-European) khác, đã có những bộ sách về ngôn ngữ học, về ngữ pháp, rất đồ sộ. Chúng ta đi sau, thiết tưởng không cần tranh đua với họ về những gì nặng lý thuyết hình thức. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những gì thiết thực. Khi nào trong sách báo của chúng ta không còn lỗi chính tả, không còn lỗi dùng chữ, không còn lỗi đặt câu, không còn lỗi chấm câu, chúng ta mới nên nghĩ đến việc bàn cãi thật sát sao về nguồn gốc tiếng Việt, về những vấn đề chuyên môn của ngôn ngữ học như phân vị, hình vị, âm vị, âm tiết, về ngữ pháp học đối chiếu... Những thứ ấy, chúng ta chưa cần đến bây giờ.
Nhưng việc phân biệt từ loại là bước đầu của ngữ pháp, nên chúng ta đưa ra bàn ở đây.
Đây là một vấn đề xem qua như dễ, nhưng đi sâu vào lại thấy rất phức tạp. Xin nêu thí dụ cụ thể để nhận xét. Chúng ta thử phân tích từ loại câu này:
Người cha lặng lẽ ngồi đọc báo trong phòng khách, còn mấy đứa con thì nô đùa ầm ĩ ngoài sân.
Bạn thấy có gì khó không? Riêng tôi, tôi thấy không dễ có một cách phân tích được mọi người đồng ý.
Tôi đã từng gặp những người, mỗi khi cần phân tích từ loại một câu tiếng Việt đại để như trên, thường dịch ngược ra tiếng Pháp, rồi dựa theo những từ tiếng Pháp mà qui loại cho những từ tiếng Việt. Họ có căn bản Pháp văn, đã quen với môn "analyse grammaticale" của tiếng Pháp. Nhưng làm như họ, có lẽ chỉ có kết quả tốt khi gặp được một câu tiếng Việt gồm toàn những từ đồng từ loại một cách rõ ràng với những từ tiếng Pháp. Họ có thể đối chiếu để qui loại, và tên từ loại cũng dịch từ tên từ loại tiếng Pháp. Và cách phân loại của họ có thể chấp nhận được, vì dễ hiểu, vả lại cũng có lý.
Nhưng với câu nêu trên, nếu dịch "người cha" ra "le père", rồi qui chữ "nguời" vào "loại từ" (article) thì có ổn không? Nếu dịch chữ "còn" ra "tandis que" (locution conjonctive), hoặc ra "et" (conjonction), rồi qui chữ này vào "liên từ"; hoặc dịch ra "quant à" (locution prépositive), rồi gọi nó là "giới từ" sao? Như vậy, thứ ngữ pháp này đâu còn là ngữ pháp tiếng Việt nữa?

Còn chữ "thì" thuộc từ loại gì vậy? Hình như bên tiếng Pháp, không có một từ nào đồng loại với nó . Vậy, phải "làm ngơ" nó đi, hay sao?
Và "đứa" có phải là danh từ không? Hay "đứa con" là danh từ hai chữ (ghép)?
Và một vấn đề dễ hơn, nhưng không chắc ai cũng nghĩ giống nhau: "lặng lẽ" và "ầm ĩ" thuộc từ loại gì? Nếu luận nghĩa theo ngữ pháp tiếng Pháp, "lặng lẽ" tức là "một cách lặng lẽ", và "ầm ĩ" tức là "một cách ầm ĩ", thì dễ dàng qui loại cả hai vào "trạng từ" (adverbe). Nhưng hiện nay, có nhiều nhà ngữ pháp vẫn coi chúng là "tính từ" làm chức năng "trạng ngữ".
Thật không đơn giản chút nào!
Nhưng tới đây, dù chúng ta chưa thể đồng ý với nhau về từ loại của tất cả mọi từ, điều này đòi hỏi thời gian thảo luận, nhưng ít nhất, chúng ta cũng có thể đồng ý với nhau một điểm: Ngữ pháp của tiếng Việt phải là ngữ pháp của tiếng Việt, không qui chiếu, không mô phỏng một ngữ pháp nào khác. Chúng ta học hỏi tinh thần phân tích khoa học của những nhà ngôn ngữ và ngữ pháp quốc tế, nhưng không thể rập khuôn theo công trình của họ. Nói chung, tiếng của họ không phải là tiếng Việt. Nói riêng, về mặt từ loại, tiếng Việt có những đặc điểm mà những thứ tiếng Ấn-Âu không có.
Xin bắt đầu từ chỗ có thể nhiều người nghĩ là nên bắt đầu: Tiếng Việt có bao nhiêu từ loại?
Với ngữ pháp lý thuyết, chúng ta có thể nêu ngay một con số, là 9, là 10, là 11 chẳng hạn, đặt tên cho thỏa đáng, rồi đưa ra thí dụ thích hợp (chỉ chọn thí dụ thích hợp thôi) để phân tích qui loại. Nhưng mục đích của chúng ta ở đây không phải là lý thuyết, mà là thực dụng. Vậy chúng ta hãy dùng thí dụ cụ thể để nhận ra những nét đặc thù của vấn đề từ loại của tiếng Việt. Những khó khăn này thanh giải được rồi, chúng ta sẽ đi vào hệ thống. Lúc đó, ai chưa quen với việc phân tích từ loại cũng có thể dựa vào ý kiến chung, mà nhận ra những từ nào là danh từ, những từ nào là động từ, những từ nào là tính từ... Để từ đó tiến lên chỗ nhận ra từ loại của những từ đặc biệt chỉ có trong tiếng Việt.
Không nhiều thì ít, trong đầu óc những ai đã quá quen với cách đặt câu của tiếng Pháp, tiếng Anh, thường có cái ý căn bản này: Một câu đủ ý luôn luôn phải có một động từ có ngôi ( verbe conjugué). Cái ý này đã làm khó không ít cho việc nhận định từ loại ở một số trường hợp trong tiếng Việt. Thí dụ:
-Cô ấy có đẹp không?
Chữ nào là động từ? "Có" là động từ, được chăng?
-Cô ấy đẹp lắm.
Chữ nào là động từ? "Đẹp" phải không?
Với câu hỏi, vì chữ "có" đồng dạng đồng âm với động từ "có" (avoir), có người đã miễn cưỡng hiểu "có đẹp không" là "có nhan sắc không", để qui loại "có" ở đây vào động từ. Cũng giống như câu "Cô ấy có tiền không" vậy.
Nhưng với câu trả lời, khó lòng qui loại "đẹp" là động từ, họ liền cho rằng tiếng Việt có khi không theo qui cách.
Thật ra, tiếng Việt luôn luôn có qui cách, dù linh động cũng là linh động trong qui cách. Nói thuận theo cách nói thành thạo và thông dụng, là nói theo qui cách. Qui cách được hình thành do thói quen sử dụng lâu ngày (thời gian) của đa số người Việt (không gian). Qui cách này không cần phải giống qui cách của một thứ ngoại ngữ nào khác. Chúng ta nói "tôi ăn bánh", và nếu cần dựa một chút vào ngữ pháp tiếng Pháp để phân tích từ loại câu ấy, thì chỉ nghĩ "tôi" cũng giống như "je" là đại từ nhân xưng, "ăn" cũng giống như "mange" là động từ, và "bánh" cũng giống như "pain" là danh từ. Tuy là bước đầu, nhưng đối chiếu như thế là đủ. Xin đừng dịch câu ấy ra tiếng Pháp (Je mange du pain), rồi thắc mắc tại sao trong câu tiếng Pháp, trước chữ "pain" có chữ "du", mà trong câu tiếng Việt, trước chữ "bánh" không có gì cả, để rồi nghĩ là tiếng Pháp tinh vi hơn tiếng Việt. Có thể có những trường hợp tiếng Việt không tinh vi bằng tiếng Pháp, nhưng ở đây, tiếng Việt không có chút gì kém thua.
Cái thí dụ đơn giản vừa nêu nhắm mục đích nói lên điều này: Chúng ta đi sau các nhà nghiên cứu Tây-phương trong các lãnh vực ngôn ngữ học, ngữ pháp học, từ loại học, nên chúng ta phải biết lợi dụng những thành công của họ, kể cả những công trình nghiên cứu của họ về tiếng Việt, nhưng chúng ta chỉ đối chiếu chớ không rập khuôn.
Nói riêng về việc phân tích từ loại, tiếng Việt có thể có số từ loại không tương đương với số từ loại bên tiếng Pháp và tiếng Anh. Theo ngữ pháp hiện đại, từ của tiếng Pháp và tiếng Anh được chia thành 9 từ loại chính: Danh từ (nom, noun), đại từ (pronom, pronoun), động từ (verbe, verb), tính từ (adjectif, adjective), trạng từ (adverbe, adverb), giới trừ (préposition, preposition), liên từ (conjonction, conjunction), mạo từ (article), thán từ (interjection). Nhưng với tiếng Việt, nếu chỉ chia thành 9 loại thì không đủ minh bạch, có thể còn một số từ không biết qui vào loại nào cho phải. Xin nêu thí dụ:
-Sao con không dẫn em đi học mà để nó đi một mình cho nó lạc đường như thế ? Chắc mày mê đá banh chớ gì?
Một bà mẹ trách đứa con lớn ham chơi để em nhỏ đi học lạc đường, tất nói như vậy. Nếu bây giờ, chúng ta dịch ngược hai câu này ra tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, rồi phân tích từ loại thì sẽ không có từ nào không qui loại được. Nhưng bên tiếng Việt, sự qui loại sẽ không dễ dàng với những từ: "sao", "không", "mà", "cho", "như thế", "chắc", "chớ gì". Ngoài ra, những cặp "đi học", "lạc đường", "đá banh", cũng không dễ phân tích. "Đi học" là động từ ghép (hai chữ) hay là hai động từ đơn đi với nhau? "Lạc đường" là động từ hai chữ, hay "lạc" là động từ còn đường là danh từ? "Đá" là động từ, "banh" là danh từ, hay phải để chung, làm động từ ghép, làm danh từ kép (như "bóng đá")?
Thật không ít rắc rối! Vì sự rắc rối này, mà các từ điển tiếng Việt ngày trước đều không chỉ định từ loại sau các mục từ. Những từ điển ra đời gần đây có ghi từ loại, thì không được các nhà ngữ pháp cho là chính xác.
Nhưng chúng ta vạch ra khó khăn chỉ là để thấy trước, không phải để nói là không làm được. Riêng về mặt từ loại, tiếng Việt có phần phức tạp hơn tiếng Pháp, tiếng Anh thật đấy, nhưng chúng ta quyết không chịu thua. Sự bất đồng ý giữa chúng ta ở buổi đầu, cũng là một khó khăn. Nhưng chúng ta có một điểm mạnh chung: Chúng ta cùng yêu quí tiếng Việt, chúng ta quyết tâm làm cho tiếng Việt trở nên tinh luyện. Mọi khó khăn trở ngại đều có thể vượt qua. Chúng ta sẽ phân biệt minh bạch được mọi từ của tiếng Việt, từ đó tiến tới một cuốn ngữ pháp hoàn chỉnh.
Ở trên, chúng ta nêu sự phức tạp khó phân định từ loại của tiếng Việt, chẳng khác nào chưa chi đã nêu cái khó, có thể gây chán nản. Sau đây, chúng ta hãy nêu cái "hay" của tiếng Việt về mặt từ loại, để có một chút phấn khởi ban đầu. Tôi muốn nói về sự chuyển loại của từ tiếng Việt.
Có lẽ trong mọi ngôn ngữ đã phát triển đến trình độ cao, các từ đều có thể chuyển loại. Chẳng hạn nguyên là danh từ chuyển dụng làm động từ; nguyên là tính từ chuyển dụng làm danh từ... Trong tiếng Anh, tiếng Pháp, chữ Hán, hiện tượng này rất phổ biến:

"Eat" (động từ) là ăn, chuyển dụng thành "eats" (danh từ) là thức ăn; "drink" (động từ) là uống, chuyển dụng thành "drink" (danh từ) là thức uống, là rượu và nhiều nghĩa khác liên hệ đến rượu; "good" (tính từ) nghĩa là tốt, chuyển dụng thành "good" (danh từ) nghĩa là điều thiện, người tốt, v.v...
"Manger" (động từ) là ăn, chuyển dụng thành "manger" (danh từ) là đồ ăn, sự ăn; "boire" (động từ) là uống, chuyển dụng thành "boire" (danh từ) là đồ uống, sự uống; "beau, belle" (tính từ) là đẹp, chuyển dụng thành "beau, belle" (danh từ) có nghĩa điều thiện, vẻ đẹp, người đẹp, v.v...
"Thực" (động từ) là ăn, chuyển dụng ra "thực" (danh từ) là đồ ăn, miếng ăn; "ẩm" (động từ) là uống, chuyển dụng ra "ẩm" (danh từ) là thức uống, sự uống; "mỹ" (tính từ) nghĩa là tốt đẹp, chuyển dụng như danh từ, có nghĩa là cái đẹp (chân thiện mỹ), v.v...

Tiếng Việt không biến dạng, một khi đã phát triển đến trình độ cao với từ vựng rộng rãi đủ dùng như ngày nay, những trường hợp chuyển dụng tương tự như trên lại càng nhiều:
-"Ăn" là động từ có nghĩa là nhai nuốt vào bụng một thức gì để nuôi sống, hoặc thưởng thức vị ngon... (thức đó phải là chất cứng, chất đặc; nếu là chất lỏng, thì phải gọi là uống). Từ nghĩa động từ này, "ăn" được chuyển dụng sang danh từ với nghĩa "thứ để nuôi sống, thứ để đỡ đói": -Anh ta làm việc suốt ngày cũng không kiếm đủ cái ăn cho vợ con. Từ "ăn" trong câu này không còn là động từ nữa. Chuyển dụng sang tính từ, "ăn" sẽ có nghĩa là thích hợp: -Thảm màu nâu rất ăn với vách màu vàng. Ở đây, "ăn" không còn là động từ, hoặc danh từ nữa.
-"Đi" là động từ có nghĩa là di chuyển. Trong những nhóm từ "đi đường", "đi phố", "đi khách" (nói về gái giang hồ), "đi xe đạp", "đi giày da", "đi bước nữa", v.v... "đi" cũng vẫn là động từ, với nghĩa liên hệ đến di chuyển.
Nhưng trong những câu sau đây, "đi" không thể là động từ, mặc dù nghĩa vẫn còn dính líu ít nhiều với nghĩa gốc là di chuyển:
-Làm nhanh đi, trời sắp tối rồi kìa!.
-Tôi đưa cho anh hai trăm này nữa là đi một ngàn chẵn.
-Mày là anh, sao lại đi tranh giành với nó? Có nghèo đi nữa, chúng ta cũng phải sống cho có nghĩa khí.
Vậy, những chữ "đi" này thuộc từ loại gì? Chúng ta sẽ cố gắng qui loại cho được. Gọi chung là trợ từ thì dễ, nhưng sẽ gặp những trường hợp không ổn.
Tính cách không biến dạng của từ tiếng Việt, một phần đã làm dễ dàng sự chuyển dụng. Nhưng đồng thời, tính cách này cũng gây khó khăn cho sự nhận định để qui loại. Xin nêu thí dụ:
Từ loại gốc của "vui" (hoặc vui vẻ) là tính từ: Hôm ấy, chúng tôi tổ chức một cuộc cắm trại thật vui.
"Vui" có thể dùng làm danh từ: Cái vui qua đi rất nhanh, và cái buồn lại đến.
Nhưng trong câu sau đây, "vui" có phải là động từ hay không: Trong cảnh sống nghèo khổ, ông ta cũng cố vui nhưng không vui được.
Cũng với ý đó, nếu chúng ta thêm chữ "sống" vào trước hoặc sau chữ "vui", thì vấn đề sẽ trở nên dễ dàng: ... cố vui sống ... cố sống vui. "Sống" nhận lãnh vai trò động từ, "vui" đóng vai bổ trợ, vẫn giữ từ loại gốc là tính từ.

Phải chi, tiếng Việt cũng có thể biến dạng như tiếng Pháp, thì chuyện phân vân không xảy ra. Với dạng gốc, "vui" là adjectif; muốn dùng làm nom thì thêm "esse" phía sau thành "vuiesse"; biến dạng thành "vuier" thì là verbe; biến dạng thành "vuiement" thì là adverbe... Thật là rõ ràng! (Xin mạn phép nói đùa một chút, cho bài bớt khô khan).
Sự chuyển dụng từ loại làm cho số từ tăng lên, ngôn ngữ càng ngày càng phong phú, nhưng nếu chuyển dụng phóng túng, thì lời nói sẽ trở thành không nghiêm chỉnh. Chẳng hạn:
"Xã giao", "ngoại giao" vốn là danh từ; "xã giao" chỉ sự giao tiếp trong xã hội; "ngoại giao" chỉ sự giao thiệp của một nước với nước khác (cũng có thể dùng rộng cho trường hợp cá nhân): -Phép xã giao; -Cuốn sách này bàn về xã giao. -Bộ ngoại giao; -Ông ta có tài ngoại giao.
Nhưng cũng có người dùng hai từ ghép ấy theo kiểu sau đây:
-Bà ấy rất xã giao (ý nói giao thiệp rộng, hoặc lịch thiệp, hoặc khéo ăn nói). Ở đây, "xã giao" có phải là tính từ không?
-Công việc gặp khó khăn, ông ta phải đi ngoại giao (ý nói phải đi gặp nhiều người để nói khéo với họ). Ở đây, "ngoại giao" thuộc từ loại gì? Động từ chăng? Nếu nói "phải đi làm công việc ngoại giao" thì "ngoại giao" rõ ràng là danh từ. Nhưng trong câu thí dụ, từ loại của nó không rõ. Nếu chấp nhận cách nói, đành phải qui loại nó vào động từ.
Xin dẫn dụng một từ ghép khác, "văn chương". Từ loại gốc của "văn chương" là danh từ: -Cuốn sách ấy xứng đáng được gọi là một tác phẩm văn chương. Trong câu sau đây, "văn chương" là tính từ: -Cô ta đọc tiểu thuyết quá nhiều, lời nói lúc nào cũng văn chương (ý nói văn hoa). Nhưng nếu nói: -Thôi đừng văn chương nữa, nói cụ thể là mày muốn gì đi ! Về nghĩa thì rõ ràng là người nói có ý chê bạn nói năng dông dài, nhưng về từ loại thì "văn chương" là gì? Động từ được chăng?
Cuối bài, để cho được đầy đủ, xin nói thêm một chút về sự biến dạng và không biến dạng của từ.
Động từ tiếng Anh, tiếng Pháp biến dạng tùy theo ngôi, tùy theo thì, nhưng động từ tiếng Việt vẫn giữ nguyên dạng trong mọi trường hợp: Từ dạng gốc, "go" của tiếng Anh có thể biến thành "goes", "gone", "going", "went"... Từ dạng gốc, "aller" của tiếng Pháp có thể biến thành "vais", "vont", "allé", irons... Nhưng động từ "đi" của tiếng Việt vẫn là "đi" trong mọi trường hợp: -Tôi đang đi. -Họ đã đi. -Chúng ta sẽ đi...
Trong tiếng Anh, tiếng Pháp, danh từ dùng cho trường hợp nhiều hơn một, được coi là số nhiều, thì phải biến dạng gốc: -Một con mắt viết là "eye", là "oeil"; nhưng nhiều hơn một con thì phải viết là "eyes", là "yeux"... Với tiếng Việt, dù độc nhãn hay thiên nhãn, thì vẫn là "mục", "nhãn", hay "con mắt", không hề thay đổi.
Trong tiếng Anh, tiếng Pháp, có những từ cùng "họ", có nghĩa giống nhau, chỉ khác ở từ loại. Một khi khác từ loại, thì chúng biến dạng. Nói cách khác, dạng cho biết chúng thuộc từ loại nào. Nhưng trong tiếng Việt, không thể có khái niệm "từ cùng họ", như trong ngữ pháp Anh-Pháp.
Xin lấy ý "chuyên cần" làm thí dụ.
Trong tiếng Việt, dù chuyển dụng làm từ loại nào, từ vẫn giữ nguyên dạng là "chuyên cần": -Tính từ: Anh ta là người chuyên cần. -Danh từ: Sự chuyên cần đã đem lại thành quả. Trạng từ: Anh ta làm việc chuyên cần (ở trường hợp này, có nhà ngữ pháp vẫn cho là tính từ). Sự không biến dạng này cũng có gây trở ngại một phần cho việc phân biệt từ loại.
Nhưng trong tiếng Pháp, tiếng Anh, thì nhờ từ có biến dạng, việc phân biệt từ loại trở nên dễ dàng: -diligent là tính từ; diligemmemt, diligently là trạng từ; diligence là danh từ. Không bao giờ có sự phân vân, hoặc lầm lẫn.
Tính cách không biến dạng của từ tiếng Việt còn gây một ít khó khăn cho việc sử dụng từ. Cũng xin nêu thí dụ với từ "chuyên cần":
Sẽ không có trở ngại gì nếu dùng "chuyên cần" làm tính từ hoặc trạng từ: -Nhận thấy anh ta chuyên cần, chủ đã tăng luơng cho anh ta (tính từ). -Làm việc chuyên cần, anh ta đã đưọc chủ tăng lương (trạng từ).
Nhưng nếu dùng như danh từ, thì từ loại của "chuyên cần" chỉ trở nên rõ ràng khi được đặt sau một phụ danh từ biệt loại. Và khi ấy, cách đặt câu cũng dễ được chấp nhận hơn: Tính (sự) chuyên cần đã đưa nó đến thành đạt. Bây giờ, nếu chúng ta bỏ chữ "tính" (hoặc "sự") đi, câu chỉ còn: Chuyên cần đã đưa nó đến thành đạt. Câu có vẻ hơi Tây!
Ngoài ra, những từ đồng âm đồng dạng mà không cùng nghĩa gốc cũng gây phân vân cho việc nhận định từ loại:
-Anh cho nó thêm một ít tiền nữa cho nó đủ tiêu.
"Cho" trước là động từ, nhưng "cho" sau là gì?
-Tôi đã dặn nó làm cho xong, nhưng nó có chịu nghe cho đâu.
Hai chữ "cho" này có cùng từ loại không?
-Đã cho lấy chữ hồng nhan; làm cho cho hại cho tàn cho cân
(Kiều).
Chữ "cho" đầu tiên là động từ, còn 4 chữ "cho" sau là gì?
Cuối cùng, trong tiếng Việt có rất nhiều từ láy có phần phụ đồng âm đồng dạng với nhau, nếu không nhận định kỹ, có thể tưởng lầm là từ đơn được chuyển từ loại:
-"Thiệt thà" (tính từ: chân thực); "thịt thà" (danh từ: thịt nói chung): Đây là hai từ láy có phần láy giống nhau theo cấu tạo ngữ âm, không liên hệ đến việc chuyển dụng từ loại.
Hồng Huy (http://www.oocities.org/quanvanchuong/hh-tuloai.htm)