Chó thật, chó đá, chó
rơm
(Nguyễn Dư)
Chó là con vật sống rất gần gũi
người. Sướng khổ như người.
So với chó
nhiều nước thì chó Việt Nam chưa được xếp vào hạng được ăn ngon mặc đẹp. Tuy
vậy, chó Việt Nam có thể hãnh diện về mặt huyết thống của mình.
Ta có ít
nhất là ba giống chó. Ngoài chó thật biết gâu gâu, ta còn có chó đá trơ trơ và
chó rơm im thin thít... Mỗi giống một vẻ, mười phân gần vẹn mười.
*
Số phận con chó bằng xương
bằng thịt thì ai cũng đã biết. Thật đáng thương.
Ăn thì bữa
đói bữa no. Làm thì chẳng từ chuyện gì. Dọn cho thằng cu, liếm cho cái đĩ mỗi
lần chúng bậy ra nhà. Nào là canh trộm ban đêm, canh người lạ ban ngày.
Thế mà còn
bị... chụp mũ. Mất mạng như chơi.
Một người
cưỡi ngựa đi đến đầu làng kia, có con chó đang ngủ giữa đường, bỗng giật mình
thức dậy, đuổi theo con ngựa, sủa cắn mãi, làm cho con ngựa sợ, chạy lồng lên.
Người cưỡi
ngựa tức giận vô cùng, muốn giết ngay con chó, mới bảo rằng:
- Tao mà có
súng, thì cho mày một phát là hết cắn. Nhưng mà được, tao đã có cách làm cho
mày chết.
Nói xong,
người kia chạy đến giữa làng, kêu to lên rằng :
- Chó dại!
Chó dại!
Những người
xung quanh đấy, nghe tiếng kêu chó dại, liền vác gậy, vác xẻng ra đuổi đánh
chết con chó.
Gớm thay cho
lời nói của người ta, có khi giết hại được hơn là đồ binh khí!
(Quốc văn giáo khoa thư, lớp sơ đẳng, 1948)
(Quốc văn giáo khoa thư, lớp sơ đẳng, 1948)
Chó nước ta
được sinh ra trên mảnh đất lắm người nhiều quán nhậu. Ngàn năm văn hiến, đậm đà
truyền thống "hoa thơm bướm lượn, chó rông người thèm".
Chó là một
trong mấy cái thú ở đời. Không những thế...
Con chó nhà
kia bị chủ hoá kiếp.
Xuống âm
phủ, Diêm Vương gọi chó ra hỏi tội.
- Đồ chó
chết kia, ai cho mi được vinh dự đến chầu ta?
Chó run sợ,
mếu máo kể lể:
- Tâu Diêm
Vương, con ăn ở hết lòng với vợ chồng chủ con từ tấm bé. Nào trông nhà, nào dọn
đồ dơ.
Thế mà con
vẫn còn bị chúng nó đánh chửi, huỷ hoại cả "thú vị". Đau quá Diêm
Vương ơi. Đời mà hết động cỡn, sống âm thầm như một hoạn quan, thì còn gì là
đời.
Tuần vừa
qua, nhà chúng nó bỗng vui như mở hội. Nào rượu, nào mẻ, riềng tỏi, lạc rang,
húng quế. Thân con bị băm vằm, chia năm xẻ bảy. Tưng bừng lá vông. Rựa mận,
tiết canh, dồi, gan. Nướng, xào, luộc, rim...
Diêm Vương
nuốt nước miếng, cắt lời chó:
- Đừng nói
nữa kẻo... tao thèm. Trông mày hơ hớ như thế kia thì ai mà chả muốn
"đánh" mày.
Chó bẽn
lẽn... toát mồ hôi lạnh.
- Mày bị
giết oan, tao cho đi gác cầu Vòng. Chờ ngày bọn khốn nạn kia xuống đây, cho mày
bẻ răng, xẻo lưỡi, móc mắt chúng nó.
Diêm Vương
cho chó chơi trò cân phúc, cân tội ! Có tiếng xì xào "Phen này chúng mày
sẽ biết... mõm ông". Nhưng không...
- Con không
biết trả thù. Con chỉ xin Diêm Vương bắt chúng nó từ nay phải tôn trọng
"cẩu quyền", "thú vị", cho đồng bào con được nhờ.
- Khá khen
thay. Hôm nay ta học được bài học "Có dung người dưới mới là khuyển
trên".
Từ đó, trên
dương gian bắt đầu có hội bảo vệ súc vật.
Đấy là
chuyện dưới âm phủ. Chuyện trên trần gian cũng lâm li không kém.
Có lần tôi
được nghe bố mẹ kể chuyện những năm loạn lạc.
- Làng mình
được lệnh phải giết hết chó.
- Mấy con
mực, con vện cứ thấy tự vệ, du kích là sủa toáng lên. Tây ngoài đồn bốt hô lính
chạy vào làng lùng xét, tra hỏi. Uỷ ban bắt buộc phải đối phó kịp thời...
Thế là làng
xóm được một dịp đánh chén bất đắc dĩ.
Ông giáo ngà
ngà say, đưa tay dụi mắt, giọng lè nhè:
Phong trần
đến cả thôn quê
Tang thương
đến cả trâu kia khuyển này
Chó cũng bị
đẩy vào cuộc chiến. Nói chẳng ai tin.
Ngoài mấy
trường hợp đặc biệt kể trên, phần đông chó Việt Nam sống cuộc sống bình thường
của chó. Nghĩa là ăn, ngủ, chạy rông.
Thỉnh thoảng a dua bạn bè.
Con
chó đi gặp con gà trống mới chào, rồi nói:
- Tôi trông
cho gặp anh một chuyến, mà hỏi một chuyện. Con chó mới hỏi : Trời phú tính cho
anh hay, chớ phải chơi sao! Sao lại biết canh ba, lại khi gần sáng dậy mà gáy;
ngày ngày cũng vậy.
Con gà nói:
- Cái là
trời đã phú tánh hễ tới chừng thì gáy. Rồi con gà mới hỏi : Còn như anh làm sao
anh biết có người đi mà sủa?
- Vốn cái
tâm tôi thuộc đất: hễ động đất là động tới tâm tôi, nên tôi biết.
- Mà khi anh
nằm dưới đất thì làm vậy, chớ như khi anh nằm trên ván, thì biết sao được mà
sủa?
- Chừng tôi
ở trên ván, nghe chúng sủa, thì tôi bắt chước sủa hùa theo mà thôi.
(Trương Vĩnh
Ký, Chuyện đời xưa, Sudasie tái bản, 1994)
Con chó
thành thực đến độ dễ thương. Không biết nó có hùa theo bạn bè cắn càn người ta
không?
Xưa kia tục
ta tin rằng chó trắng mũi đỏ là yêu khuyển, không nên nuôi. Ngược lại, nên nuôi
chó đen vì giống này kị yêu ma.
"Giống
chó (trắng) này tuy mang hình chó, nhưng khi chủ vắng nhà, nó nhảy lên nằm võng
đưa như người, và những đêm thanh vắng, sáng trăng suông nó sẽ đội nón, chống
gậy đi trên mái nhà bằng hai chân sau như người. Nó sẽ tìm gặp những yêu ma để
tỏ rõ hết mọi sự trong nhà và xui giục ma quấy rầy nhà chủ, gây bệnh hoạn làm
đau ốm các người trong gia đình.
Những phụ nữ hữu sinh vô dưỡng khi sinh thường lấy máu chó đen vẩy ở quanh buồng đẻ để tà ma không dám tới, nhất là để kỵ giặc Phạm Nhan. Theo ông Nghiêm Thẩm, thì các sản phụ này phải ăn thịt và dồi chó đen và còn phải chôn ở dưới chân giường xương chó đen nữa. Phải kén chó đen tuyền mới hiệu nghiệm".
Những phụ nữ hữu sinh vô dưỡng khi sinh thường lấy máu chó đen vẩy ở quanh buồng đẻ để tà ma không dám tới, nhất là để kỵ giặc Phạm Nhan. Theo ông Nghiêm Thẩm, thì các sản phụ này phải ăn thịt và dồi chó đen và còn phải chôn ở dưới chân giường xương chó đen nữa. Phải kén chó đen tuyền mới hiệu nghiệm".
(Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, tập 2, Xuân Thu tái bản, tr. 265).
Thời Xuân
Thu, Phạm Lãi giúp Việt Câu Tiễn đánh bại được Ngô Phù Sai.
Câu Tiễn là
người đa nghi, hay giết. Phạm Lãi đoán biết rằng những người có công giúp Câu
Tiễn trong lúc khó khăn, không thể sống chung với Câu Tiễn trong thời bình.
Phạm Lãi
quyết định từ quan. Trước khi rời bỏ Câu Tiễn, ông nói với xung quanh:
"Thỏ tử
cẩu phanh, điểu tận cung tàng" (thỏ chết rồi thì chó bị làm thịt, chim không còn thì
cung bị cất dấu).
Phạm Lãi là
một nhà tiên tri. Ông còn cho chúng ta biết một điều quan trọng là người Trung
quốc cũng ăn thịt chó. Rất có thể trước cả người Việt Nam.
Thế mà nhiều
người cứ bô bô... tự hào bậy!
Trở lại
chuyện chó nước ta.
Chó Việt Nam
thông minh, có óc sáng tạo. Cứ nghe chó giãi bày tâm sự với đám trâu, ngựa, dê,
gà, lợn thì đủ hiểu:
(...)
Khi sống thì gìn giữ của đời
Khi sống thì gìn giữ của đời
Khi thác
xuống giữ cầu âm giới
Người có
phước muông đưa ra khỏi
Ai vô nhơn,
qua chẳng đặng đâu
Chủ có lòng
suy trước , xét sau
Khi lâm tử,
gạo tiền tống táng
Chủ đã có
công dày, ngãi rộng
Muông dễ
không tiếp rước đãi đưa (...)
(Truyện Lục
súc tranh công)
Thật khó
tin! Chó chết được chủ lo gạo tiền, tống táng. Nước ta có chủ nào tử tế với chó
đến mức như vậy không? Có chứ! Có nhiều lắm. Nhưng tại sao chó lại được đối đãi
như vậy? Tại vì...
Thành ngữ
"Tiền cột cổ chó" được Huỳnh Tịnh Của (Đại Nam quốc
âm tự vị) giải nghĩa là: "Ngu tục hiểu con chó chết rồi, hồn nó xuống
giữ cầu âm giái, cho nên phải cột tiền hối lộ mà tống táng, hoạ ngày sau nó đã
không cắn mà lại đưa mình qua cầu âm ti".
Chu choa,
chèng đéc ơi!
Phải công
nhận rằng chó Việt Nam đáng nể hơn chó các nước khác.
Chủ kia chắc
là ăn ở cũng khá lem nhem, sợ bị Diêm Vương chiếu cố. Hắn lo móc nối ngay từ
bây giờ, sửa soạn phong bì đi hối lộ cai tù tương lai của âm phủ. Gặp được con
chó ngoan, biết điều. Mình là chó, lúc cần mình thì nó tôn mình lên. Hết cần
thì nó cho một chày là xong. Đừng tưởng bở. Mình gặp thời, nó mời mình ăn.
Không ăn đứa khác cũng đớp mất. Uổng của trời. Chi bằng cứ bài bản "vừa có
tình, vừa có lí" cho xong chuyện.
Tiếc rằng dư
luận lâu nay cứ chĩa mũi dùi vào mấy ông, mấy bà đầy tớ vênh váo kia! Nhầm đối
tượng rồi, bà con ơi. Ồn ào mà chả đi đến đâu. "Chó sủa, đoàn người cứ
đi" (Les chiens aboient, la caravane passe).
Trước hiện
tượng "Tiền cột cổ chó", giới khoa học nước ta tỏ ra lo ngại, tranh
cãi sôi nổi. Phe theo thuyết tiến hoá thì cho rằng chó truyền bệnh sang người.
Phe khác phản bác, dựa vào lịch sử xã hội để chứng minh rằng người truyền bệnh
sang chó.
Tuy chưa có
kết luận thống nhất nhưng cả hai phe đều đồng ý với nhau trên một điểm là người
giống chó, chó giống người, cả hai cùng biết ăn hối lộ.
Dân đen gọi
những ông hèn kém mà lại có địa vị cao, hợm hĩnh, là "chó nhảy (hay ngồi)
bàn độc". Bàn độc là bàn ngồi đọc sách, bàn để đồ thờ. Có người diễn nôm
chữ độc là chất độc, là cái bả. Nghe cũng hay hay.
Năm 1929,
Nguyễn Công Hoan viết truyện ngắn Răng con chó của nhà tư sản, kể chuyện
một ông lão ăn mày lập mưu cướp được đĩa cơm của chó, bị ông chủ chó phóng xe ô
tô "kẹp cho mày chết tươi, rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là
cùng!".
Khoảng 1952,
Canh Thân sáng tác bản nhạc tả cảnh chó bẹc giê nhà giàu "lếnh loáng hết
ngay một đĩa đầy" thịt bò.
- Mới thấy
một con chó nhà giàu mà đã nóng mặt. Những nhà tư sản mới bây giờ nuôi cả bầy
có nghe ai nói gì đâu!
Ngày xưa,
nước ta có "Chó đá" (Thạch khuyển).
Lần kể xuân
thu biết mấy mươi
Cửa nghiêm
thăm thẳm một mình ngồi
Đêm thanh
nguyệt dãi màng trông nguyệt
Ngày vắng
ruồi bâu biếng ngáp ruồi
Cắn kẻ tiểu
nhân nào đoái miệng
Chào người
quân tử chẳng phe đuôi
Phỏng trong
sức có ngàn cân nặng
Dấu nhẫn ai
lay cũng chẳng dời.
(Lê Thánh
Tông, Hồng Đức quốc âm thi tập)
Cửa nghiêm
là chỗ thờ phụng trang nghiêm. Trước kia, hai bên cửa vào nội điện Lam Sơn có
"hai con chó đá thô sơ". Phan Huy Chú cũng cho biết "ngoài cửa
nghi môn có hai con chó ngao bằng đá rất thiêng" (Nguyễn Tiến Cảnh, Mỹ
thuật thời Lê sơ, Văn Hoá, 1978, tr. 35).
(Chúng tôi
có tham khảo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú nhưng
không thấy đoạn viết được Nguyễn Tiến Cảnh nói đến).
Bằng chứng
chắc chắn hơn là con chó đá chầu trước đền thờ Đinh Tiên Hoàng, tại Hoa Lư.
Theo Bezacier thì con chó đá này được tạo dựng vào khoảng năm 1610 (Louis
Bezacier, L'art vietnamien, Editions de l'Union française, 1955,
tr.193).
Dường như
lúc đầu, khoảng thế kỉ 15 hoặc sớm hơn nữa, người ta đặt chó đá để canh giữ chỗ
thờ phụng vua.
Đời sau,
nhiều làng bắt chước chôn chó đá để yểm trừ ma quỷ, bảo vệ dân làng. Ban đầu
chôn ở cửa đình, cửa chùa, rồi dần dần chôn cả ở cổng làng, đường làng.
Cadière
(1918) cho biết:
Làng Nam Phổ
Đông nằm trên đường từ Huế ra Thuận An có chôn 2 con chó đá. Một con để chắn
hướng đòn ngang của ngôi đình làng Phú Khê nằm gần đó. Con kia để chắn hướng
một con đường chạy qua bãi tha ma.
(Léopold
Cadière, Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens, tập 2,
Ecole française d'Extrême-Orient, 1992, tr.132, 133).
Dưới gốc đa
già, bên cạnh con đường dẫn vào làng Hoàng Mai (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội ngày
nay) trước năm 1945, có chôn 4 con chó đá.
Tiếp theo
làng quê, đến lượt các nhà giàu cũng chôn chó đá.
Xưa kia, cửa
ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để cho người ngoài đừng nhìn
thẳng vào trung tâm nhà. Người ta cũng thường kiêng không nên để cho có con
đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà. Nếu bất đắc dĩ không
tránh được những điều kỵ ấy thì người ta chôn ở trước nhà một con chó đá hay là
treo một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí.
(Đào Duy
Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Đông Nam Á tái bản, 1985, tr.179).
Kho thóc của
thành Quảng Trị có chiếc đòn hướng vào dinh quan án sát. Người ta cho đắp một
con chó (thần cẩu) đặt trên mái dinh để ngăn chặn ảnh hưởng của chiếc đòn kia
(L. Cadière, sđd).
Hàng quý tộc
chôn chó đá để canh giữ, bảo vệ chỗ thờ vua chúa. Nhà phong thuỷ chôn chó đá để
thay đổi dương cơ, âm phần. Dân gian chôn chó đá để xua đuổi ma quỷ.
Nếu không
tiện chôn hay đặt chó đá thì có thể gắn một tấm gương.
Tại Huế, gần
bến Đông Ba có nhà bị đòn ngang của đền Quan Đế phía trước đâm thẳng vào. Chủ
nhà cho gắn một tấm gương trên mái. Gương sẽ phản chiếu, đổi hướng đi của chiếc
đòn ngang.
Bị một con
đường phía trước hướng thẳng vào nhà người ta cũng cho đặt một tấm gương trên
mái để tránh rủi ro. (L. Cadière, sđd).
Thành ngữ "Đánh
chó đá vãi cứt" được dùng để ám chỉ bọn bất tài mà lại hay huyênh
hoang, khoác lác.
Chó rơm (sô cẩu) có từ thời cổ xưa. Lão Tử than:
"Thiên
địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô
cẩu..." (Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất
nhân, coi trăm họ như chó rơm...).
Những con
chó kết bằng rơm khi chưa bày để cúng thì được cất kỹ trong rương hoặc giỏ, bao
bằng gấm vóc, khi cúng xong rồi, người ta liệng chúng ra đường, người đi đường
giẫm lên đầu, lên cổ chúng hoặc lượm về để nhóm lửa".
(Nguyễn Hiến
Lê, Lão Tử -Đạo đức kinh, Văn Hoá, tr. 171).
Chó rơm bị
vứt ra đường, bị người ta giẫm lên, hoặc lượm về để nhóm lửa. Như vậy thì chó
rơm không phải là đồ tế lễ của triều đình, vua chúa.
Chó rơm là
vật cúng của dân gian. Bên cạnh chó rơm (hay chó cỏ) còn có rồng đất cũng là
một vật cúng.
Thành ngữ "Chó
cỏ rồng đất", được giải nghĩa là:
"Xưa
kia ta cúng tế thường bện chó bằng cỏ, nắn rồng bằng đất để dùng lễ cúng ;
chừng cúng xong thì đem đi liệng bỏ. Nghĩa rộng (của thành ngữ) là : Người hoặc
vật mà người ta hết cần dùng. Công thần đã đem mối nước lại cho nhà vua, mà bây
giờ bị nhà vua sa thải".
(Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954, tr. 80).
(Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954, tr. 80).
Rồng là biểu
tượng của vua chúa. Chó là con vật gần gũi dân đen. Tại sao " chó cỏ"
lại nằm cạnh "rồng đất" trên bàn thờ?
Câu trả lời
đơn giản là rồng (long) của dân gian không phải là rồng của vua chúa. Rồng của
dân gian là con long xà (loài rắn lớn), con giao long (cá sấu, loài thuỷ quái),
con khủng long của thời tiền sử.
Tín ngưỡng
dân gian tin rằng:
Những kẻ sát
nhân, những gái giang hồ, những người bất nhân độc ác khi chết hồn bị đoạ xuống
địa ngục, phải leo qua cầu Vòng. Cầu Vòng trơn như bôi mỡ bắc qua sông Nại Hà.
Những tội nhân thường chỉ leo được đến lưng chừng là ngã lăn xuống sông Nại Hà
bị chó ngao, thuồng luồng, rắn giải cắn xé.
(Toan Ánh, Tín
ngưỡng Việt Nam, quyển 1, Xuân Thu, tr. 321).
Người ta
phải làm lễ cúng chó ngao, thuồng luồng, rắn giải dưới âm phủ để cầu cho người chết
qua sông Nại Hà được bình yên.
"Chó
cỏ, rồng đất" tượng trưng cho chó ngao, thuồng luồng, rắn giải của âm phủ.
Nhiều người
sợ chó ngao nhưng lại hay mang chó ngao ra... hù doạ người khác.
Hù doạ bằng
cách mời thầy phù thuỷ làm phương thuật "Yểm bùa họng chó".
Thầy phù
thuỷ làm một cái bùa, kết thành hình người mà thân chủ muốn trả thù, muốn hại.
Rồi thầy thắp đèn đốt nhang, đọc thần chú, tung phép bắt hồn người kia nhập vào
bùa. Bùa luyện xong, được thầy phù thuỷ yểm vào họng một con chó.
Người bị trả
thù kia sẽ bị âm binh bắt nộp cho chó ngao.
Huỳnh Tịnh
Của cho biết là chó cỏ (sô cẩu) còn được dùng để tế đảo vũ (cầu mưa).
Văn học
thỉnh thoảng cũng mượn hình ảnh con chó để ví von, luận bàn thế sự.
Người thì
chửi bọn làm tay sai cho thực dân Pháp:
Sống thì bắt
thỏ thỏ kêu rêu
Thác thả
dòng sông xác nổi phều
Vằn vện sắc
còn phơi lững đững
Thúi tha
danh hãy nổi lêu bêu
Tới lui bịn
rịn bầy tôm tép
Đưa đón lao
xao lũ quạ diều
Một trận gió
dồi cùng sóng dập
Tan tành
xương thịt biết bao nhiêu
(Nguyễn Văn
Lạc, Chó chết trôi)
Người thì
than vãn cho cuộc đời phù du:
Lò cừ nung
nấu sự đời
Bức tranh
vân cẩu vẽ người tang thương.
(Nguyễn Gia
Thiều, Cung oán ngâm khúc)
Vân cẩu là
đám mây hình con chó. Cuộc đời đổi thay nhanh như đám mây trắng bỗng chốc hoá
thành hình chó xanh (thơ Đỗ Phủ). Người khác lại muốn được... như chó:
Tâu rằng :
"Hổ phận ngu si,
Đem lòng
khuyển mã đền nghì bể sông" (Nhị độ mai)
Khuyển mã
(chó ngựa) là lời tự khiêm của bầy tôi đối với vua hoặc tớ đối với chủ. Ơ hay!
Sao lại vàng thau lẫn lộn như thế? Bầy tôi có bổn phận của bầy tôi. Tớ có phong
cách của tớ. Tại sao tôi tớ lại chơi trèo, đòi so sánh mình với chó ngựa ? Vô
tình hạ thấp uy tín của chó ngựa.
Cao Bá Quát
mượn chuyện các quan cãi nhau để chửi khéo triều đình Tự Đức:
...Hai bên
cãi nhau
Bên này bảo
chó
Bên kia cũng
chó
Hai bên đều
chó
Rồi họ đánh
nhau...
(Thái Bạch, Giai thoại văn chương
Việt Nam, Xuân Thu tái bản, tr. 108)
Kho tàng văn
chương bình dân truyền khẩu có bài (tạm đặt tên là) Đôi ta:
Em đẹp như
phân lạc giữa dòng
Anh như chú
khuyển đứng bên sông
Dòng sông
nước chảy em trôi mãi
Anh đứng
trên bờ rỏ dãi trông
Hương tình
ngào ngạt, thiết tha đắm đuối.
Tiếc thương
cho số phận nổi trôi, đôi bờ phân cách.
Bao giờ
thuyền tình mới ghé bến mơ ? Kinh nghiệm sống dạy người dân quê một điều:
Chó đâu chó
sủa chỗ không
Chẳng thằng
ăn trộm thì ông ăn mày
Ngoài nghĩa
đen, nghĩa bóng, câu ca dao còn phản ánh nền đạo lí của ta. Ăn trộm, ăn cắp, ăn
cướp, bất kể già hay trẻ, lớn hay bé, tất cả đều là thằng đáng khinh. Ngược
lại, ăn mày được gọi bằng ông một cách kính trọng.
Ăn mày kiếm
ăn giữa ban ngày, ăn trộm là phường chỉ thậm thụt bất kể ngày đêm.
Chó có đạo
lí của chó. "Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo",
chưa chắc chó đã thua người.
Các nước
phương tây ngày nay đã thành công trong việc huấn luyện chó để cứu người, tìm
ma tuý, chất nổ.
Người ta
đang cố gắng dạy chó ngửi được những đồng tiền bẩn.
Trời đất quỷ
thần ơi! Sao lại dạy chó... chống lại người như vậy? Người ta muốn diệt chủng
chó à?
Chó nước ta
thực tế, biết mình biết người. Không mơ mộng được cưng chiều. Chỉ mong giang
sơn gấm vóc kia giảm bớt những lò sát sinh treo " cờ tây " ngất
nghểu. Bảy, tám món ăn chơi. Chín, mười món ăn thiệt. Bớt những tấm bảng hiệu
chào khách lủng lẳng, cao gần bằng... mái đình làng!
Trong ngôn
ngữ hàng ngày, chúng ta nên thận trọng để tránh một vài ngộ nhận.
" Chó
má " là lời khen con nít mới đẻ xinh tốt, mà không dám nói ngay (Huỳnh
Tịnh Của). "Đồ chó má" là câu chửi, khinh thường người khác.
"Cây
chó đẻ" là một loài cỏ dùng làm thuốc chữa bệnh hậu sản. "Đồ chó
đẻ" là câu chửi tục tĩu.
Nguyễn
Dư (Lyon, 9/2005)
http://chimvie3.free.fr/22/nddg082.htm
http://chimvie3.free.fr/22/nddg082.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét